Muối Của Tình Yêu

(2 đánh giá của khách hàng)

Với những ai từng yêu quí Sarah Dessen chắc chắn ko còn lạ gì với những câu chuyện tuyệt vời của bà. Tuy cốt truyện không quá lạ lẫm nhưng cách viết nhẽ nhàng, đầy cuốn hút đã tạo nên điểm nhấn cho tác phẩm. Xuyên suốt câu chuyện là những mối mâu thuẫn của cô bé tuổi teen với cha mẹ của mình và những trách nhiệm, thách thức đang đợi cô phía trước, cũng như cố gắng giúp cô bạn thân nhất đời vượt qua cú sốc lớn trong cuộc đời. Những tình huống trong truyện rất thực tế, tác giả đã cho thấy sự đồng cảm sâu sắc của mình với những bạn trẻ và đồng thời giúp những bậc phụ huynh thấu hiểu và cảm thông với con mình hơn. Đặc biệt tác phẩm còn là bài học về tình bạn cao cả : bạn bè thực sự là những người luôn ở bên ta khi tất cả đã quay đầu. Xoáy sâu cào tâm lí và tình cảm tuổi mới lớn cuốn sách thực sự là món ăn tinh thần đầy bổ ích cho các bạn tuổi teen cũng như những bậc cha mẹ đang gặp rắc rối với con mình

Danh mục:

Giới thiệu

Cuốn tiểu thuyết của nỗi đau xót tuổi 16 và không gian lãng mạn kỳ ảo

“Từ lâu lắm rồi, từ rất lâu trước khi loài người được tạo ra, con sông Colorado uốn mình, theo thời gian bào khắc vào vách núi, để lộ khe vực tự nhiên hùng vĩ. Thời gian trôi qua, đến tự nhiên cũng khắc lên nhau những khoảng ngăn cách vời vợi đang chờ được hàn gắn. Và loài người cũng thế.”

Scarlett Thomas là một cô bé mạnh mẽ đến kỳ lạ, gây ấn tượng rực rỡ với mái tóc đỏ và những nét cá tính khác biệt. Trong ký ức của Halley vào năm mười một tuổi khi lần đầu gặp Scarlett là cô bạn đã chăm sóc cả mẹ, thay vì ngược lại. Halley và Scarlett lớn lên bên nhau, vô cùng thân thiết. Họ dậy thì cùng lúc, cùng thích xem phim kinh dị và như các cô bé mới lớn khác, họ thích mấy trò đùa ngớ ngẩn. Cuộc sống của họ tương hợp một cách hoàn hảo và dường như Scarlett bao giờ cũng là điểm tựa cho Halley.

Nhưng cuộc sống bắt đầu thử thách họ, thử thách tình bạn của hai người. Michael Sherwood – một cậu trai rám nắng, cao lớn và cực kỳ quyến rũ đang hẹn hò cùng Scarlett. Cậu mất đột ngột trong một tai nạn đụng xe trên đường, khi chỉ mới mười sáu tuổi. Đây thực sự là một mất mát lớn đối với gia đình Michael và đặc biệt là với Scarlett. Nếu như trước kia Scarlett vô cùng mạnh mẽ thì giờ đây, cô bạn gái Halley yếu đuối ngày nào bỗng trở thành một điểm tựa tinh thần không gì thay thế được.

Liệu Halley có làm được điều đó hay không khi cô vốn nhút nhát và đã quen có Scarlett bênh vực, che chở? Tình bạn của họ rồi sẽ đi về đâu và nhất là Scarlett sẽ như thế nào sau cái chết của Michael và hơn tất cả, Scarlett bắt đầu nhận thấy một sinh linh bé bỏng đang lớn dần lên trong bụng cô?

Với cốt chuyện rất hấp dẫn, cách giải quyết câu chuyện nhân văn, giọng viết nhẹ nhàng, trong trẻo, Mui ca tình yêu đã đoạt giải thưởng “Tác phẩm hay nhất dành cho bạn trẻ” (Best Books for Young Adults) do Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ (American Librar Association – ALA) bình chọn.

Đọc thử

Scarlett Thomas là bạn thân, thân nhất trên đời của tôi. Chúng tôi chơi với nhau từ khi còn bé tí. Lúc tôi bắt đầu biết ghi nhớ vào trí óc những sự việc xảy ra xung quanh mình cũng là lúc tôi tìm thấy người bạn thân thiết này. Đó là lý do tôi nhận ra ngay sự bất ổn từ phía đầu dây bên kia, ngay cả khi Scarlett chưa kịp nói, bất chấp những ngày hè tồi tệ chưa từng có mà tôi đang phải trải qua tại trại hè Sisterhood này. Chuyện gì đó đã xảy ra. Tôi biết chắc như vậy.

– Là Michael. – Giọng Scarlett khẽ khàng và đứt quãng. – Michael Sherwood ấy.

– Sao vậy? Có chuyện gì thế? – Tôi hỏi, bên cạnh là cô Ruth, giám đốc trại hè. Cô có vẻ sốt ruột. Cũng dễ hiểu thôi. Việc lồm cồm bò dậy vào giữa đêm hôm khuya khoắt, phải trườn xuống chiếc giường ọp ẹp và lê lết qua cánh rừng tối om om chỉ để nhận một cú điện thoại là hoàn toàn trái với chủ trương của trại hè Sisterhood. Ở đây, đám nữ sinh chúng tôi được đặt trong môi truờng sinh hoạt biệt lập, tránh xa những ảnh hưởng của xã hội. Những người quản lý trại hè nghĩ rằng làm như thế sẽ giúp chúng tôi tự trưởng thành, tự hoàn thiện bản thân và trở thành những người phụ nữ mẫu mực. Và những gì đang diễn ra trong văn phòng giám đốc đây, vào đêm thứ ba này, là thật khó chấp nhận.

Có tiếng thở dài qua điện thoại. Đúng là có chuyện rồi.

– Michael làm sao? – Tôi lặp lại, còn cô Ruth không ngừng đảo mắt thăm dò. Chắc chắn cô ấy nghĩ chúng tôi đang tán chuyện tầm phào.

– Cậu ấy chết rồi. – Giọng Scarlett đều đều như thể đang nhẩm đọc bảng cửu chương. Tôi có thể nghe thấy cả tiếng nước chảy và những tiếng va đập ở phía bên kia.

– Chết? – Từ ấy bất ngờ vọt ra khỏi miệng tôi, khiến bà trại trưởng nhướng mắt lên tò mò. Tôi vội quay sang chỗ khác. – Sao lại chết?

– Tai nạn. Tối nay. Bị xe hơi đâm trên đường Shortcrest. – Tiếng nước càng lúc càng xối xả và mãi đến lúc này, tôi mới nhận ra là Scarlett đang rửa bát. Cậu ấy là như thế. Thậm chí nếu thảm họa hạt nhân có xảy ra, cậu ấy vẫn có thể điềm nhiên làm việc nhà.

– Cậu ấy chết rồi ư? – Tôi hỏi lại lần nữa. Căn phòng đột nhiên trở nên chật chội và ngột ngạt. Cô Ruth khẽ đặt tay lên vai tôi, nhưng tôi rụt vai và bước lùi lại. Trong đầu tôi hiện lên hình ảnh Scarlett mặc quần soóc và áo thun đứng cạnh bồn rửa chén, tóc cột đuôi gà, đầu ngoẹo sang một bên, kẹp chiếc điện thoại vào vai. – Lạy Chúa!

– Ừ. – Cậu ấy nói tiếp giữa tiếng ồng ộc thoát ra từ ống nước bồn rửa. Scarlett không khóc. – Vậy đó.

Chúng tôi lặng người ngồi đó. Thời gian như kéo dài bất tận, chỉ có tiếng vo vo phát ra từ chiếc điện thoại. Tôi ước gì có thể chui qua cái ống nghe về lại căn bếp bên cạnh Scarlett. Michael Sherwood, cậu bạn từng cùng chúng tôi lớn lên, người mà một trong hai chúng tôi đây đang đem lòng yêu thương. Cậu ấy đã chết?

– Halley này! – Giọng Scarlett nhẹ nhàng vang lên.

– Ừ, tớ đây.

– Bây giờ cậu về với tớ có được không?

Tôi nhìn ra khung cửa sổ tối đen, xuyên qua hồ nước phía ngoài, nơi ánh trăng đang dệt nên một màn sương mờ ảo. Giờ đã là gần cuối tháng Tám và kỳ nghỉ hè cũng sắp hết. Chỉ một tuần nữa là khai trường, và chúng tôi sẽ lên lớp mười một.

– Halley ơi? – Scarlett lại gọi. Tôi biết phải khó khăn lắm cậu ấy mới có thể mở lời như thế, bởi giữa hai đứa chúng tôi, Scarlett chưa bao giờ là người cần giúp đỡ.

– Chờ nhé! – Tôi khẽ đáp trong căn phòng sáng trưng ánh đèn. – Tớ sẽ về ngay.

Michael Alex Sherwood mất lúc 8 giờ 55 phút ngày 13 tháng Tám, khi đang rẽ trái vào đại lộ Morrisville từ hướng Shortcrest thì bất ngờ bị chiếc BMW của một gã doanh nhân nào đó đâm phải. Cú va chạm khiến Michael văng khỏi chiếc xe máy của mình và bị hất bay đi hơn sáu mét. Kết quả giám định cho thấy cậu tử vong vì bị chấn động mạnh, còn chiếc xe máy mà cậu vừa mua hai tháng trước giờ chỉ còn là đống sắt vụn. Không phải lỗi của Michael. Cậu ấy mới mười sáu tuổi.

Cậu ấy cũng là người con trai duy nhất mà Scarlett từng yêu thương. Ba đứa chúng tôi biết nhau từ nhỏ, cùng lớn lên ở khu Lakeview(1), nơi có những con đường ngoằn ngoèo và ngõ ngách uốn khúc, với đường ranh giới được phân định bằng những chiếc cọc gỗ cùng một tấm biển kiểu “cây nhà lá vườn”, được đẽo gọt và sơn vàng dòng chữ: “Chào mừng đến với Lakeview – Miền đất bạn hữu”. Rồi mấy năm trước, một nhóm học sinh tạt ngang qua khu chúng tôi và nghịch ngợm “mang theo” chữ “u” cùng dấu ngã, khiến dòng chữ trở thành “Miền đất bạn hư” – một hành động mà bố tôi cho là đầy tính châm biếm. Tất nhiên, nó khiến ông khoái chí đến nỗi mẹ tôi đã nhiều lần phải “truy hỏi” xem có phải chính ông bày trò hay không.

Một điểm đặc biệt nữa ở Lakeview chính là sân bay mới, cách trung tâm khoảng năm cây số, với những chuyến bay đến và đi đều đặn. Bố tôi rất thích sân bay này. Hầu như tối nào cũng vậy, khi những tiếng gầm gừ vang vọng mỗi lúc một lớn hơn, ông lại ra hiên sau nhà ngóng mắt lên trời, thích thú ngắm nhìn và chờ đợi cho đến khi phần đầu máy bay, nhọn và trắng, dần hiện ra từ đằng xa – sáng chói và mạnh mẽ đủ để kéo ta bay theo. Ấy vậy mà âm thanh ấy lại khiến ông hàng xóm Kramer của chúng tôi điên tiết lên, trái ngược hoàn toàn với vẻ “say mê” kỳ lạ của bố. Riêng với tôi, điều đó chẳng có gì quá đặc biệt. Tôi ít khi phản ứng khi mấy tấm kính cửa sổ trong nhà rung lên lạch cạch. Thậm chí, tôi còn chẳng bị giật mình thức giấc nếu thanh âm đó rền vang ngay giữa đêm hôm khuya khoắt.

Lần đầu tiên tôi gặp Scarlett là khi cậu ấy dọn về đây cùng với mẹ – cô Marion. Năm đó, tôi mười một tuổi. Tôi còn nhớ lúc ấy mình đang ngồi bên cửa sổ, quan sát đám người mới dọn tới thì phát hiện một cô bé trạc tuổi mình với mái tóc đỏ và đôi giày thể thao màu xanh. Cô bé ngồi chống cằm trước cửa nhà xem người ta di chuyển mớ đồ nội thất vào trong, khuỷu tay tì xuống đầu gối, hoàn toàn không đếm xỉa gì khi tôi đặt chân lên khoảng sân trước ngôi nhà mới của mình. Khi ấy, tôi dừng lại bên mái hiên và chờ đợi người bạn hàng xóm mới thốt lên một câu gì đó mở lời, bởi tôi không giỏi kết bạn. Tôi quá nhút nhát, quá thu mình và thường kết nhầm bạn với những đứa trẻ hống hách, để rồi trở thành nạn nhân cho những trò trêu ghẹo, bắt nạt của chúng. Và kết cục là tôi luôn phải chạy về nhà khóc với mẹ. Lakeview – “Miền đất bạn hư” cũng như bao nơi khác, không thiếu gì đám tiểu thư nhóc tì tinh quái đi xe đạp màu hồng, mang túi xách Barbie và những thứ đồ dùng diêm dúa của chúng. Trước đó, tôi chưa từng có một người bạn đúng nghĩa.

Tôi bước đến trước mặt cô bé ấy và thấy bộ dạng mình phản chiếu qua chiếc kính mát gọng nhựa hình trái tim viền trắng đeo trên mắt người hàng xóm mới: áo thun trắng, quần soóc xanh, mang đôi giày ba ta với vớ hồng. Tôi đứng đó, chờ cô bé cười vào mặt, đuổi tôi đi, hoặc có khi chỉ là phớt lờ như đám con gái hơn tuổi vẫn thường làm.

– Scarlett, – giọng một người phụ nữ cất lên từ đằng sau cánh cửa màu xanh nghe có vẻ mệt mỏi và nôn nóng, – tập chi phiếu của mẹ đâu rồi?

Cô bé quay đầu vào phía trong nhà, cất lên từng tiếng rành rọt:

– Trên kệ bếp đấy mẹ, con để trong cái hộp cất bộ hồ sơ nhà đất ạ.

Giọng người phụ nữ khi nãy lại vang lên lúc gần lúc xa như thể bà đang đi lại quanh nhà:

– Hộp đựng hồ sơ à, xem nào, làm gì có nhỉ. À khoan, đây, nó đây rồi!

Người phụ nữ reo lên, cứ như thể chính cô ấy vừa khám phá ra tuyến đường biển nối liền Đại Tây Dương và Thái Bình Dương len lỏi qua những hòn đảo nhỏ ở phía Bắc Canada. Trong khi đó, đứa con gái quay lại nhìn tôi, vẻ như vừa khẽ lắc đầu.

Tôi còn nhớ lúc đó, tôi đã có cảm giác là Scarlett có vẻ già dặn hơn tuổi và tất nhiên là trông trưởng thành hơn tôi. Nhưng bấy giờ, điều đó lại khiến tôi bất giác nhớ đến hình ảnh mấy đứa con gái hống hách trên chiếc xe đạp màu hồng, và thế là tôi quay bước định bỏ đi. Nhưng cô bé đã lên tiếng:

– Này, chào. Tớ tên là Scarlett.

– Còn tớ là Halley. – Tôi đáp lại, cố giữ giọng dạn dĩ giống cô bé. Tôi chưa từng biết ai có cái tên lạ như thế, tất cả đám con gái trong lớp tôi đều tên là Lisa, Tammy, Caroline hay Kimberly(2)… Nói rồi, tôi chỉ tay qua bên kia đường, về phía cánh cửa sổ phòng mình. – Nhà tớ ở đằng kia.

Cô bé gật đầu rồi nhặt cái xắc tay của mình lên, đứng dậy bước xuống sân, phủi bụi trên một bậc thềm rồi ngồi xuống đó, dành ra một khoảng trống cạnh bên vừa cỡ cho một người tầm tuổi mình. Cô bé quay lại nhìn tôi, mỉm cười. Còn tôi rảo bước qua bãi cỏ xanh mướt trong nắng hè đến ngồi xuống bên cạnh Scarlett. Cái khoảng cách bé nhỏ giữa hai đứa đã được đập tan. Chúng tôi ngồi đó, cùng quay mặt đối diện về phía nhà tôi, nhưng vẫn chẳng nói gì với nhau. Có sao đâu chứ, khi cả hai đứa sẽ còn bên nhau cả cuộc đời phía trước.

Tôi ngồi đó với Scarlett, cả hai phóng tầm mắt qua con đường về phía ngôi nhà của tôi, nơi góc sân, và cả bố tôi với nỗ lực đẩy cái máy cắt cỏ ngang qua bụi hoa hồng. Khi ấy, với tôi, đó đều là những điều quá đỗi thân thuộc tưởng như sẽ chẳng bao giờ đổi thay. Nhưng từ cái ngày đầu tiên đó, tôi đã có thêm Scarlett trong đời mình, và mọi thứ không còn như trước nữa.

Ngay khi vừa dứt cuộc điện thoại với Scarlett, tôi gọi ngay cho mẹ. Mẹ tôi là chuyên viên tâm lý, và đối tượng chuyên môn của bà là lứa tuổi mới lớn như tôi. Nhưng dù mẹ đã xuất bản hai quyển sách, tổ chức hàng tá buổi hội thảo và xuất hiện trong các cuộc mạn đàm hướng dẫn các bậc phụ huynh về phương thức đối phó với những năm tháng ẩm ương của con trẻ…, chính bà dường như vẫn không thể tìm ra cách hòa hợp với tôi.

Lúc tôi gọi về nhà đã là một giờ mười lăm phút sáng.

– Xin chào! – Thật lạ là với giờ giấc thế này, giọng mẹ tôi vẫn còn rất tỉnh táo. Một phần trong tác phong chuyên nghiệp của mẹ mà: Đáng tin cậy – Mạnh mẽ – Tỉnh táo.

– Mẹ ơi, con đây.

– Halley? Có chuyện gì thế ?

Có tiếng rầm rì phía sau, bố tôi cũng đã thức dậy.

– Là Michael Sherwood, mẹ ạ.

– Ai cơ?

– Cậu ấy vừa mất.

– Ai mất? – Mẹ hỏi lại, lần này cao giọng hơn, và tiếng bố tôi vang lại trong điện thoại: “Ai chết? Ai vậy?”.

– Là Michael Sherwood, bạn con.

– Lạy trời. – Mẹ thở ra, rồi bịt ống nghe lại và bảo bố ngủ tiếp. – Ừ, kinh khủng quá! Nhưng giờ đã khuya rồi. Con gọi từ đâu vậy?

– Trong văn phòng của trại hè, – tôi trả lời. – Mẹ đến đón con đi, mẹ!

– Đón con? – Mẹ tôi hỏi lại giọng ngạc nhiên. – Còn những một tuần nữa mà Halley?

– Con biết, nhưng con muốn về nhà.

– Này, thật ra con đang mệt và cũng khuya quá rồi. – Tôi nhận ra ngay là mẹ đã lấy lại giọng điệu của một chuyên viên tâm lý. – Sáng mai khi con bình tĩnh lại, mình sẽ nói chuyện nhé. Mẹ bảo đảm là con chưa muốn rời trại sớm thế đâu.

– Mẹ, nhưng cậu ấy chết! – Tôi lặp lại. Cứ mỗi lần tôi thốt lên từ ấy là bà trại trưởng Ruth lại ngẩng mặt lên nhìn tôi.

– Mẹ biết mà, con yêu. Mẹ hiểu điều đó thật là khủng khiếp, nhưng bây giờ về nhà cũng có thay đổi được gì đâu, mà lại còn làm gián đoạn mùa hè của con một cách vô ích…

– Mẹ, con muốn về nhà. – Tôi ngắt lời mẹ. – Con cần phải về nhà ngay lập tức. Scarlett mới gọi cho con. Lúc này, bạn ấy rất cần con. – Cổ họng tôi khô lại và đắng ngắt. Mẹ đã không hiểu tôi. Mẹ chưa bao giờ chịu hiểu tôi.

– Scarlett còn có mẹ của bạn ấy mà, con yêu. Bạn ấy sẽ không sao đâu. Halley này, đã khuya lắm rồi đấy. Con đang ở với ai vậy? Có người quản lý ở đó không?

Tôi hít sâu. Tất cả những gì hiện ra trong tâm trí tôi lúc này là hình ảnh của Michael, cậu con trai tôi chẳng mấy quen thân, thế nhưng trong chốc lát, cái chết của cậu lại là cả vấn đề. Rồi tôi nghĩ đến Scarlett giờ này đang ngồi trong căn bếp sáng choang chờ tôi về. Đó mới là lý do quan trọng.

– Làm ơn mà, mẹ! – Tôi thì thào qua chiếc điện thoại và xoay lưng lại với cô Ruth. Tôi không muốn người phụ nữ xa lạ ấy phải thấy tội nghiệp cho tôi tí nào. – Làm ơn đến đón con đi, mẹ!

– Halley, – giọng mẹ tôi mệt mỏi có phần hơi cáu kỉnh, – đi ngủ đi, sáng mai mẹ sẽ gọi lại. Lúc đó mình nói chuyện sau.

– Nhưng mẹ phải đến cơ. – Tôi cuống quít, không muốn mẹ dập máy. – Mẹ hứa là sẽ đến nhé. Cậu ấy là bạn của tụi con mà, mẹ!

Đầu dây bên kia im lặng một lúc và tôi mường tượng cảnh mẹ mặc chiếc đầm ngủ màu xanh ngồi trên giường, kế bên là bố đang ngủ say và ánh đèn từ gian bếp bên nhà Scarlett rọi qua những khung cửa sổ, hắt qua vai bà.

– Thôi được rồi, Halley! – Mẹ nói với giọng điệu cho qua chuyện, như thể tôi là đứa chuyên gây rắc rối và ngày nào cũng có một người bạn của tôi qua đời. – Được rồi, mẹ sẽ đến đón.

– Mẹ hứa nhé?

– Mẹ đã nói là mẹ sẽ đến. – Mẹ đáp và tôi biết giây phút ấy chúng tôi càng xa cách nhau hơn, trong một cuộc chiến dai dẳng.

– Giờ thì đưa điện thoại cho quản lý của con đi.

– Vâng. – Tôi nhìn về phía bà trưởng trại lúc này đang bắt đầu gà gật. – Mà mẹ ơi?

– Gì nữa nào?

– Con cảm ơn mẹ.

Không có tiếng trả lời. Tôi đợi một lúc.

– Ừ, được rồi. Cho mẹ nói chuyện với người quản lý đi.

Tôi đưa điện thoại cho cô Ruth và bước ra bên ngoài, lắng nghe tiếng cô ấy đảm bảo với mẹ rằng việc tôi rời trại sớm không phải vấn đề to tát, rằng tôi sẽ được thu dọn hành lý và rằng thật đáng tiếc và đau buồn vì người qua đời còn quá trẻ. Sau đó, tôi trở lại lều của mình, mò mẫm leo lên chiếc giường ọp ẹp trong bóng tối và nhắm mắt lại.

Nhưng tôi không chợp mắt lâu được. Trong đầu tôi, khuôn mặt của Michael Sherwood liên tục hiện lên. Đó là người tôi vài lần liếc nhìn trong những năm cấp hai, người mà tôi và Scarlett từng cùng nhau chỉ trỏ, bình phẩm về tấm hình của cậu ta trong những cuốn lưu bút hết năm này qua năm khác. Cậu ấy cũng chính là người trong bức ảnh nơi khung hình trong phòng ngủ của Scarlett. Bức hình được chụp lúc hai người đi chơi ở hồ nước cách đây mới vài tuần: với mặt nước sáng lấp lóa phía sau, Scarlett tựa đầu lên vai Michael còn tay cậu ta đặt lên đầu gối của Scarlett, trong khi mắt nhìn về phía cô bạn hàng xóm của tôi, cậu ấy nhìn Scarlett chứ không phải vào chiếc máy chụp hình khi tôi nhấn nút chụp đánh “tách” và ánh flash lóe lên.

Mẹ trông khá khó chịu khi đến đón tôi vào chiều hôm sau. Chuyến đi của tôi ở trại hè Sisterhood đến giờ phút này rõ ràng là một thảm họa. Điều này dĩ nhiên không nằm ngoài dự đoán của tôi khi phải bất đắc dĩ lếch thếch suốt hai tuần trong núi với một đám con gái tẻ nhạt. Mẹ tôi tình cờ biết đến trại hè Sisterhood trong một buổi hội thảo. Và bố tôi gọi nó là Trại Believe – hẳn bố nghĩ đó là một kiểu bấu víu vào niềm tin, hoặc của mẹ, hoặc của tôi. Mẹ mang về nhà một tập giới thiệu và kẹp dưới đĩa tôi vào bữa ăn sáng, phía trên đính một mẩu giấy màu vàng với dòng chữ “Con thấy sao?” Dĩ nhiên, phản ứng đầu tiên của tôi khi liếc nhìn bức hình hai đứa con gái trạc tuổi mình đang nắm tay nhau chạy qua cánh đồng là “Cảm ơn, con không muốn chút nào!”. Đó đại khái là một trại hè với các hoạt động bơi lội, cưỡi ngựa và tập thắt nút như tất cả các trại hè khác, chỉ riêng buổi tối là có thêm các buổi nói chuyện chuyên đề và sinh hoạt nhóm với chủ đề “Mẹ nào con nấy” và “Áp lực bạn bè: Nơi nào dành cho tôi?”. Trên tờ rơi còn có hẳn một đoạn giới thiệu về lòng tự trọng và cách duy trì các giá trị cá nhân, cùng với những lời khuyên mà tôi vẫn thường thấy trong phần giới thiệu ở bìa cuối mấy quyển sách của mẹ. Tất cả những gì tôi biết là ở vào độ tuổi mười lăm này, khi mà chưa đầy ba tháng nữa là tôi được lấy bằng lái xe(3), thì việc tham dự trại hè hoặc các buổi hội thảo, chưa nói đến việc giữ kỷ cương quân đội, đã chẳng còn phù hợp.

– Đây sẽ là những kinh nghiệm quý báu cho con, – mẹ nói với tôi vào cuối bữa tối, – hơn hẳn việc tụ tập phơi nắng ở hồ bơi nhà Scarlett và bàn tán về đám con trai đấy!

– Nhưng đang là mùa hè mà mẹ! – Tôi phản đối. – Với lại cũng sắp hết hè rồi, hai tuần nữa là con đã phải đi học lại!

– Không sao, con sẽ về kịp ngày khai trường. – Mẹ kết luận và tiếp tục lật giở quyển sách giới thiệu.

– Nhưng con còn phải đi làm thêm. – Tôi cố gắng viện cớ lần cuối. – Scarlett với con đang làm thu ngân ở cửa hàng Milton, cái quầy rau xanh trong trung tâm thương mại dưới phố ấy. Con đâu có thể nghỉ đến hai tuần được!

– À, ông Averby nói dạo này công việc không nhiều nên có thể bố trí người thay ca cho con đấy. – Mẹ nói đơn giản.

– Mẹ đã gọi cho ông Averby? – Tôi đặt nĩa xuống bàn. Bố vẫn im lặng ngồi ăn từ khi nãy, giờ đã chịu khẽ liếc nhìn mẹ. Ngay đến bố cũng thấy việc gọi điện thoại đến tận chỗ làm của con cái như thế là quá đáng. – Mẹ thật là…

– Chỉ là để biết có được hay không mà thôi. – Dường như mẹ nói câu ấy với bố nhiều hơn là đáp lời tôi, nhưng bố chỉ khẽ lắc đầu và tiếp tục ăn. – Em biết thế nào con bé cũng tìm đủ lý do để trốn tránh.

– Nhưng sao con phải phí đến hai tuần lễ với một đám người không quen không biết? – Tôi cãi. – Scarlett và con có kế hoạch rồi mà mẹ. Bọn con phải tăng ca để kiếm tiền đi biển, rồi bọn con còn…

– Nghe đây Halley, – mẹ tôi bắt đầu mất kiên nhẫn. – Lúc con về thì Scarlett vẫn ở đây cơ mà, vả lại mẹ có bắt ép con làm điều gì kinh khủng lắm đâu? Chỉ là một việc mẹ muốn con làm, vì mẹ và dĩ nhiên, con sẽ thấy là vì chính con nữa. Chỉ có hai tuần thôi.

– Con không muốn đi. – Tôi nhìn bố cầu cứu, nhưng bố chỉ mỉm cười, vẻ có lỗi và lấy thêm bánh mì. Bố sẽ chẳng can dự vào, việc của bố là dỗ ngọt tôi khi mọi chuyện đã xong xuôi. Bố luôn là người rón rén trước cửa phòng và ú òa tôi bằng một ly sữa lắc vị sô-cô-la lạnh buốt óc mà bố tin là có thể giải quyết tất tần tật mọi thứ trên đời. Sau một hồi cãi cọ và kết thúc bằng việc những cánh cửa bị đóng sầm, sau khi hai mẹ con tôi thu mình về hai góc riêng, tôi sẽ luôn ngồi và chờ đợi tiếng máy xay sinh tố quay ro ro trong nhà bếp và rồi bố sẽ xuất hiện ngay cửa phòng với ly sữa đậm đặc như là lễ vật cầu hòa. Nhưng dù có bao nhiêu ly sữa lắc trên đời đi nữa cũng chẳng thể khiến tôi nguôi ngoai được.

Mùa hè của tôi đã kết thúc như thế. Chủ nhật hôm ấy, tôi gói ghém đồ đạc và ngồi xe suốt ba giờ đồng hồ để đến trại hè, trong lúc mẹ cứ mải mê hồi tưởng về thời hoàng kim ngày xưa mỗi lần tham dự trại hè và hứa hẹn rằng đến lúc kết thúc trại hè, thể nào tôi cũng phải cảm ơn mẹ. Mẹ thả tôi xuống chỗ bàn ghi danh, hôn tạm biệt tôi rồi lái xe về ngay trong ánh hoàng hôn, bỏ lại sau lưng đứa con gái với khuôn mặt ấm ức và chiếc ba lô trên vai, giữa một đám tiểu thư rõ ràng là cũng không muốn bị “giam lỏng” suốt hai tuần lễ chút nào.

Tôi thuộc diện có “học bổng” tại trại hè Sisterhood, nghĩa là không phải đóng phí. Có bốn đứa khác cũng “nhập trại” với tình huống đó, và tình cờ làm sao, bố mẹ chúng nó cũng là các chuyên gia tâm lý. Sau khi làm quen với đứa bạn cùng phòng, cả hai bắt đầu than vãn và chế giễu các quản lý rồi tiếp tục rủ nhau tắm nắng và bàn tán về đám con trai.

Nhưng giờ thì tôi được rời trại sớm hơn dự định bởi một cậu bạn mà tôi không mấy quen thân. Tôi cất đồ đạc vào cốp xe rồi ra phía trước ngồi bên cạnh mẹ tôi. Đã mười lăm phút trôi qua và ngoài câu chào đầu tiên, mẹ hầu như không nói gì nhiều với tôi. Đúng như tôi nghĩ: bất phân thắng bại. Tôi không muốn đến trại hè, còn mẹ không muốn tôi về sớm. Thế là hòa. Nhưng tôi biết mẹ sẽ không nghĩ vậy. Gần đây, dường như hai mẹ con tôi luôn bất đồng quan điểm.

– Thế trại hè ra sao? – Mẹ lên tiếng khi xe vừa rẽ vào đường cao tốc. Mẹ thiết lập chế độ tự động điều khiển để cho xe chạy ở tốc độ được đặt trước, chỉnh lại máy điều hòa và có vẻ như đã sẵn sàng làm lành với tôi. – Nói đúng hơn là con thấy nó thế nào?

– Cũng bình thường ạ. – Tôi đáp lại. – Mấy buổi chuyên đề thì hơi chán.

– Thế cơ à. – Lúc này, tôi mới chợt nhận ra là mình lại vừa khơi mào trận chiến. Nhưng tôi biết rõ mẹ sẽ phản pháo lại thôi. – Có lẽ nếu con tham dự hết khóa thì đã gặt hái được nhiều hơn rồi.

– Vâng, có lẽ thế. – Tôi đáp, ngắm nhìn những ngọn núi dần lùi lại phía sau qua tấm kính chiếu hậu.

Tôi biết mẹ có rất nhiều điều muốn nói với mình, có thể mẹ muốn hỏi Michael Sherwood là ai mà lại khiến tôi phải quan tâm đến vậy vì rất hiếm khi tôi nhắc đến cậu ấy. Hoặc là tại sao tôi lại ghét đi cắm trại ngay từ lúc mẹ đề cập đến mà không thèm suy xét chút nào. Hoặc là hơn thế nữa, tại sao mấy tháng gần đây chỉ cần nhác thấy bóng dáng của mẹ là tôi đã thủ thế tự vệ và tại sao chúng tôi từ chỗ vô cùng thân thiết lại trở thành những đối tượng mà cả hai thậm chí còn không thể xác định được là gì. Nhưng mẹ vẫn giữ im lặng.

– Mẹ ơi?

Mẹ quay sang nhìn tôi, dường như tôi vừa nghe thấy mẹ lấy hơi, sẵn sàng đối mặt với bất cứ điều gì mà tôi sắp thốt lên.

– Gì thế?

– Cảm ơn mẹ đã cho con về nhà.

– Ừ, Halley. – Mẹ nhẹ nhàng đáp lại và tiếp tục lái xe – Có gì đâu.

Tôi với mẹ từng rất gắn bó. Mẹ biết mọi điều xung quanh tôi, từ những cậu bạn trai tôi thích đến những đứa con gái tôi ghen tị. Mỗi lần từ trường về, tôi luôn vào bếp, vừa nhâm nhi đồ ăn vặt vừa làm bài tập đến khi nghe tiếng xe mẹ đỗ ngoài sân. Lúc nào tôi cũng có sẵn chuyện để kể với mẹ. Sau buổi vũ hội đầu tiên trong trường, hai mẹ con cùng ngồi ăn kem hộp và mẹ chăm chú nghe tôi tường thuật chi tiết tất tần tật mọi thứ từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc. Mỗi thứ bảy, khi bố phải làm việc ở đài phát thanh, mẹ con tôi sẽ dành một buổi “Hẹn hò ăn trưa” cùng nhau. Mẹ thích mấy tiệm mì Ý sang trọng trong khi tôi chỉ khoái thức ăn nhanh và pizza, thế nên chúng tôi thường luân phiên nhau. Có khi mẹ bắt tôi phải ăn thứ mì khủng khiếp ấy, rồi lại đến lượt tôi “nhìn ngắm” cảnh mẹ cố nuốt trôi từng miếng hamburger. Chúng tôi có một nguyên tắc: Luôn luôn gọi hai món tráng miệng và cùng chia sẻ với nhau. Sau đó, mẹ và tôi sẽ lao vào khu trung tâm thương mại để săn hàng giảm giá và thi xem ai tìm được món hời nhất. Lúc nào cũng vậy, mẹ thường thắng.

Mẹ viết rất nhiều bài trên các tạp chí về mối quan hệ giữa hai mẹ con cũng như bằng cách nào mà cả hai vẫn gắn bó khi tôi vào cấp 3, tức “giai đoạn căng thẳng” giữa phụ huynh và con cái. Mẹ còn tổ chức nhiều buổi nói chuyện ở các trường học và họp mặt hội phụ huynh về cách “Giao tiếp với con cái”. Mỗi lần bạn bè của mẹ ghé qua nhà uống cà phê rồi than phiền rằng con cái của họ quá ngỗ nghịch và xin bí quyết hòa thuận của hai mẹ con tôi, mẹ chỉ lắc đầu:

– Tớ cũng không biết nữa. Halley và tớ thân thiết lắm, chuyện gì cũng nói với nhau cả.

Nhưng rồi bỗng dưng vào đầu hè này, mọi thứ bắt đầu thay đổi. Tôi cũng không nhớ chính xác từ khi nào, nhưng có lẽ là sau kỳ nghỉ tại khe vực Grand Canyon(4).

Cứ mỗi hè, bố mẹ lại dẫn tôi đi nghỉ mát. Đó là sự kiện trọng đại nhất của gia đình tôi trong suốt một năm, và điểm đến thường sẽ là những nơi tuyệt vời như Mexico hay châu Âu. Năm nay, chúng tôi làm một cuộc hành trình xuyên quốc gia, đến California, rồi sau đó là khe vực Grand Canyon, dọc đường dừng chân chỗ này chỗ kia ngắm cảnh và thăm hỏi họ hàng. Kỳ nghỉ thật tuyệt, bố lái xe còn hai mẹ con tha hồ nhàn rỗi trò chuyện, nghe đài, cùng sáng tác ra nhiều bài hát hoặc ghi nhớ các kỷ niệm vui để làm cột mốc cho từng nơi đã ghé thăm. Hai bố con tôi nhân cơ hội này ép mẹ ngày nào cũng phải “tọng” thức ăn nhanh để trả đũa cho suốt một năm chỉ toàn rau trộn dầu giấm và sủi cảo nấu với thịt jambon Ý cho những bữa ăn tại nhà. Kỳ nghỉ kéo dài suốt hai tuần, thỉnh thoảng cũng cự cãi lặt vặt nhưng trong phần lớn chuyến hành trình, cả gia đình đều vô cùng vui vẻ.

Dẫu vậy có ba sự kiện lớn đã xảy ra khi tôi trở về. Đầu tiên là việc bắt đầu đi làm tại cửa hàng Milton. Cuối năm học trước, Scarlett và tôi đã đi khắp nơi đăng ký tìm việc và đây là chỗ duy nhất chịu nhận cả hai đứa. Khi tôi đi nghỉ về thì Scarlett đã làm việc ở đó được hai tuần nên cô ấy hướng dẫn cho tôi quen việc. Sự kiện thứ hai là khi Scarlett giới thiệu tôi với Ginny Tabor, một cô bạn mà cậu ấy quen ở hồ bơi trong khi tôi đi nghỉ. Ginny là thành viên trong nhóm cổ vũ, nổi tiếng phóng túng, ngông cuồng và trong đội bóng đá người ta bàn tán về cô ta nhiều hơn hẳn những màn cổ vũ và cú nhảy tung người trên không. Ginny sống cách chỗ chúng tôi vài dặm, trong khu biệt thự Arbors sang trọng được thiết kế theo lối kiến trúc Tudor, có cả sân thể thao, hồ bơi và sân gôn nữa. Cha của cô nàng là nha sỹ còn người mẹ chỉ nặng chừng bốn mươi ký, suốt ngày phì phèo xì gà Benson Hedges 100 và có làn da bóng nhẫy giống hệt bộ ghế da trong phòng khách nhà tôi. Bà ấy cứ thế ném tiền cho Ginny và bỏ mặc chúng tôi tự lang thang đến hồ bơi hay lẻn vào sân gôn mỗi tối hẹn hò với đám con trai.

Chính điều này đã dẫn đến sự kiện thứ ba của mùa hè năm nay: Chỉ hai tuần sau khi trở về nhà, tôi quyết định chấm dứt với Noah Vaughn, cậu bạn trai cù lần mà tôi đã cặp kè suốt một năm qua.

Noah là “mối tình đầu” của tôi, nghĩa là chúng tôi thường xuyên gọi điện trò chuyện mỗi tối và thỉnh thoảng có hôn nhau nữa. Cậu ấy cao và ốm nhách, tóc đen dày còn mặt thì lấm tấm mụn. Bố mẹ Noah là bạn thân của bố mẹ tôi, và việc chúng tôi tụ tập ở nhà một trong hai gia đình mỗi tối thứ sáu đã thành thông lệ. Một mối tình đầu như thế không có gì là tệ hại, tuy nhiên giờ đây, khi tôi vừa gia nhập vào cái thế giới nổi loạn đầy mới mẻ của Ginny Tabor thì Noah phải ra đi thôi.

Lẽ tất nhiên Noah khó mà chấp nhận điều này. Cậu ấy giận dỗi, cau có với tôi nhưng vẫn cùng bố mẹ và em gái đến nhà tôi chơi vào mỗi cuối tuần, mặt lạnh tanh ngồi yên khi thấy tôi vừa hét toáng lên tạm biệt bố mẹ vừa lao ra cửa. Tôi luôn nói là qua nhà Scarlett chơi trong khi thực tế, bọn tôi gặp gỡ đám con trai hay đàn đúm với Ginny. Mẹ là người buồn bã hơn ai hết trong vụ chia tay này. Có lẽ mẹ mong sau này tôi sẽ lấy Noah thì phải. Nhưng tôi đã là một con người khác, chìm đắm vào những ngày hè sôi nổi bất tận. Và lúc tôi tập tành hút thuốc, uống bia, bắt đầu phơi nắng nhuộm nâu hết làn da và xỏ thêm hai lỗ khuyên tai cũng là lúc tôi bắt đầu dần rời xa mẹ, một cách vô hình.

Trên bệ lò sưởi của gia đình có treo một bức ảnh luôn khiến tôi nhớ lại khoảng thời gian thân thiết của hai mẹ con ngày trước. Chúng tôi đứng ở Grand Canyon, tại một trong những nơi có thể phóng tầm nhìn bao quát nhất, sau lưng là những hẻm núi dài hun hút. Hai mẹ con tôi mặc áo thun cặp, đeo kiếng mát và khoác vai nhau cười rạng rỡ. Từ trước đến nay chưa có tấm hình nào trông chúng tôi lại giống nhau đến vậy, từ chiếc mũi nhỏ đến thế đứng và nụ cười hồn hậu. Mẹ và tôi thật hạnh phúc trong ánh nắng rực rỡ và bầu trời trải rộng tít tắp phía sau. Khi về nhà, mẹ lồng khung bức ảnh ấy và treo ngay chính giữa bệ lò sưởi để ai cũng có thể nhìn thấy. Giống như thể bằng một cách nào đó, mẹ tôi linh cảm được rằng chỉ vài tháng sau, bức ảnh sẽ chỉ còn là dấu tích của một quãng thời gian mà chẳng ai tin được là đã từng tồn tại: quãng thời gian mẹ và tôi, hai người bạn thân thiết, cùng chụp hình tại Grand Canyon.

Khi chúng tôi về đến nơi, Scarlett đang ngồi ở bậc thềm trước nhà. Trời đã nhá nhem tối và đâu đó dọc con phố, những ngôi nhà dần sáng đèn, người ta bắt đầu ra ngoài vui đùa cùng với con cái hoặc dẫn chó đi dạo. Dường như có ai đó đang tổ chức tiệc nướng, mùi thơm bay phảng phất trong gió, quyện với mùi cỏ mới cắt và mùi đất sau cơn mưa.

Tôi bước ra khỏi xe, đặt túi xách xuống trước nhà và hướng tầm mắt về phía nhà Scarlett. Chỉ có căn bếp đang sáng đèn, ánh sáng hắt qua bên nhà để xe trống trơn. Scarlett giơ tay lên vẫy tôi.

– Mẹ, con qua nhà Scarlett nhé.

– Ừ. – Mẹ vẫn chưa hết giận tôi sau vụ bỏ trại hè. Nhưng lúc ấy đã trễ và mẹ tôi cũng mệt rồi, cả hai có lẽ nên tạm thời “đình chiến”.

Tôi đã thuộc nằm lòng khoảng cách từ nhà mình đến nhà Scarlett, thậm chí nếu có đánh mất tất cả giác quan thì tôi vẫn tìm đến được nơi đó. Phải bước qua một cái ổ gà giữa đường và bị vài vệt xước nho nhỏ khi đi ngang hai bụi cây trước nhà cậu ấy. Từ lối đi đến bậu cửa nhà Scarlett tổng cộng là mười tám bước chân. Vào năm lớp sáu, cả hai đã đo đạc cẩn thận và nhớ như in từng chi tiết. Chúng tôi đã dành cả tháng trời tính toán khoảng cách rồi đo bước chân, cố gắng chia cái thế giới nhỏ ấy ra thành từng phần dễ đo đạc.

Giờ đây, tôi đang tiến về phía Scarlett giữa ánh chiều nhập nhoạng, nghe rõ tiếng bước chân mình và tiếng máy điều hòa ro ro trên khung cửa sổ.

– Này, – tôi lên tiếng và Scarlett khẽ dịch người sang nhường chỗ cho tôi, – mọi chuyện thế nào rồi?

Có thể đó là một trong những câu hỏi ngốc nhất mà tôi từng thốt ra, nhưng thật sự vào lúc này, từ ngữ chẳng còn nhiều ý nghĩa nữa. Tôi nhìn sang bên cạnh: Scarlett để chân trần, mái tóc buộc túm cẩu thả. Cậu ấy đang khóc.

Chưa bao giờ tôi thấy bạn mình trong tình cảnh như thế. Scarlett lúc nào cũng là người mạnh mẽ, sôi nổi và dũng cảm hơn tôi. Ngay mùa hè đầu tiên mới dọn về đây, chính cậu ấy đã hạ bệ Lassister – cái con nhỏ kiêu căng xấu tính nhất trong đám con gái đỏng đảnh – khi cả đám vây lấy hai đứa mà giở trò chọc ghẹo chỉ để thấy chúng tôi khóc nhè. Chính Scarlett cũng là người ngay từ lúc năm tuổi đã biết trông coi nhà cửa và thậm chí còn chăm sóc cả mẹ mình nữa. Và cũng chính cậu ấy đã bảo vệ tôi khỏi bị nuốt chửng trong cái thế giới này. Scarlett luôn là người mà tôi hằng tin tưởng.

– Scarlett? – Tôi gọi. Trong bóng tối, Scarlett quay đầu nhìn tôi, nước mắt chảy tràn trên gương mặt. Mất một lúc lâu, tôi cứ lúng túng không biết phải làm gì. Tôi nghĩ về bức ảnh của bạn mình và Michael đính trên chiếc gương trong phòng Scarlett. Bức ảnh mới chụp cách đây vài tuần, mặt nước sáng lấp lánh sau lưng họ. Và tôi cũng nhớ lại những điều hàng ngàn lần trước đây Scarlett đã làm để xóa tan mọi vết xước nhỏ nhặt nhất trong lòng tôi, khi mà tôi tìm đến bên bạn thân của mình và khóc.

Tôi nhoài người kéo Scarlett về phía mình, vòng tay ôm chặt lấy người bạn thân thiết nhất đời như cố gắng đền trả những gì mình đã nợ lâu nay. Chúng tôi ngồi đó rất lâu, chỉ có tôi và Scarlett giữa ánh đèn vàng vọt tỏa ra từ căn bếp bên này và khung cửa sổ phía nhà tôi hắt lại. Mùa hè đã kết thúc, rất nhiều thứ khác cũng đã kết thúc. Tôi ngồi lặng yên bên Scarlett, cảm nhận đôi vai cậu ấy rung lên trong vòng tay mình. Không cần bận tâm rồi đây mình sẽ phải làm gì, hay ngày mai điều gì sẽ đến. Tất cả những gì tôi biết lúc này chỉ đơn giản là Scarlett cần tôi và tôi đang ở bên cạnh cậu ấy. Đó là điều tốt nhất chúng tôi có thể làm được cho nhau.

Trích dẫn

Đang cập nhật..

Thể loại

15 quyển sách hay về cuộc sống giúp bạn vững bước trên đường đời - Cuộc sống vốn vô thường, đôi khi biến cố, khó khăn xảy ra bất ngờ khiến con người dễ buông xuôi, tuyệt vọng. Trong những lúc đó điều duy nhất còn lại có thể kéo chúng ta ra khỏi vực tối, tìm lại chính mình là ý chí. Chỉ cần giữ vững nghị lực và… Đọc thêm

Nơi bán

 

Nhận hàng ngay chỉ trong vài giờ với gói TIKINOW tại TP.HCM, HN, Cần Thơ, Đà Nẵng, Nha Trang, Hải Phòng, giảm ít nhất 15% cho nhiều đầu sách bán chạy

Tới nơi bán

 

FREESHIP cho đơn hàng từ 140k tại TP.HCM và Hà Nội, từ 250k tại các tỉnh thành khác, giảm ít nhất 15% cho nhiều đầu sách bán chạy.

Tới nơi bán

2 đánh giá cho Muối Của Tình Yêu

  1. Anh Nguyen

    Đây là cuốn tiểu thuyết ngọt ngào nhưng không kém phần sâu lắng mà Sarah Dessen dành tặng các bạn trẻ. Ở đó, có những vết nứt, có những mất mát, đau thương, có cả những khoảng trống nhưng cũng không thiếu những điều kì diệu tuyệt vời. Đọc cuốn sách, bạn sẽ được đi từ trải nghiệm này đến trải nghiệm khác, tâm hồn đồng điệu và con tim sẽ đập cùng nhịp với các nhân vật. Cuốn sách xứng đáng với danh hiệu “Tác phẩm hay nhất dành cho bạn trẻ” do Hiệp hội Thư viện Hoa Kì bình chọn.

  2. Thu Trang

    Muối của tình yêu là một cuốn sách rất hay, khi đọc nó tôi không khỏi trầm trồ trước những điều đẹp đẽ ấy như tình bạn trong sáng của Halley và Scarlett. Một cô gái nhút nhát, trầm tính và một cô nàng mạnh mẽ, sôi nổi. Họ đến với nhau như một lẽ rất tự nhiên để viết tiếp những câu truyện tuổi thơ thật đẹp khi Scarlett bảo vệ Halley khỏi bị bắt nạt bởi những kẻ thích gây rắc rối. Nhưng theo quy luật tự nhiên, ai rồi cũng phải gục ngã dù có mạnh mẽ đến đâu, Scarlett người luôn bảo vệ Halley cũng gục ngã trước cái chết của Michael bạn trai cô và sinh linh bé bỏng trong bụng thì Halley người bạn yếu đuối ngày nào lại mạnh mẽ đến bất ngờ đã luôn bên cô, giúp cô đứng dạy từng chút, từng chút một để rồi kết thúc câu truyện cô bé Grace Halley Thomas ra đời như kết quả của tình yêu và tình bạn đẹp, ở lại cùng tuổi 16 đáng nhớ.Với ngòi bút miêu tả tinh tế thấu hiểu rõ tâm lý tuổi mới lớn. Cách kể chuyện nhẹ nhàng và đầy thú vị, Dessen đã gửi đến người đọc một thông điệp lớn rằng tình yêu ngọt ngào như mật ong nhưng vẫn có vị mặn. Vị mặn từ những giọt nước mắt của Scarlett với Michael hay của Halley với Macon. Cũng qua đó ta tìm thấy giá trị thực sự của tình bạn, dù có bao nhiêu khó khăn thử thách, người bạn thân vẫn luôn ở đó cùng ta vượt qua những trở ngại trong cuộc sống. Gấp lại những trang cuối của cuốn sách, tôi không khỏi mỉm cười trước vẻ đẹp của câu truyện. Như vừa được nhâm nhi một thỏi chocolate, vị ngọt vừa đủ để không ngấy, vị đắng vừa đủ để cảm nhận được nét đẹp trong trẻo của tình bạn, tình yêu tuổi 16 chân thành và tinh khôi.

Thêm đánh giá

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button